[CẬP NHẬT] - NGÀNH CẢNG BIỂN - DUY TRÌ ĐÀ TĂNG TRƯỞNG Đăng ngày: 21-08-2024 Lượt xem: 162
1. Kết quá kinh doanh
- Hoạt động xuất nhập khẩu và thông quan tiếp tục tăng trưởng: Giá trị xuất nhập khẩu duy trì đà tăng trưởng trong 7 tháng đầu năm, đạt 439.9 tỷ USD (+17.6% CK; 4T 2024: +15.1% CK). Trong đó, giá trị xuất khẩu và nhập khẩu đạt lần lượt 212.9 tỷ USD (+18.5% CK; 4T 2024: +15.4% CK) và 226.9 tỷ USD (+15.7% CK; 4T 2024: +15% CK).
- Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều tăng trưởng, bao gồm: Điện tử (+30.0% CK); Điện thoại (+12.3% CK); Máy móc (+19% CK); Dệt may (+4.2% CK). Hầu hết các thị trường xuất khẩu chủ lực đều tăng trưởng mạnh trong 7T: Hoa Kỳ (+25.0%CK); Trung Quốc (+4.8%CK); Nhật Bản(+4.6% CK); và Hàn Quốc (+9.1%CK).
- Hoạt động thông quan vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh, với khối lượng thông quan 4T 2024 ước tính đạt 277.2 triệu tấn (+20.1% CK). Trong đó, khối lượng hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu ước tính lần lượt là 67.1 triệu tấn (+18.9% CK) và 85.5 triệu tấn (+31.0% CK). Ngoài ra, khối lượng thông quan container cũng tăng trưởng đáng kể. Cập nhật đến cuối T4, tổng khối lượng container ước tính đạt 9.3 triệu TEU (+26.7% CK). Trong đó, khối lượng container xuất khẩu và nhập khẩu ước tính lần lượt là 2.9 triệu TEU (+21.6% CK) và 2.9 triệu TEU (+20.4% CK).
- Sản xuất trong nước và FDI: Hoạt động sản xuất trong nước tiếp tục cải thiện, với Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tiếp tục xu hướng tăng, đạt 11.2% CK trong T7. Trong khi đó, PMI cũng duy trì trên ngưỡng 50 điểm từ T4, đạt mức 54.7 trong T7. Ngoài ra, FDI sản xuất tiếp tục tăng, với tổng vốn đăng ký lũy kế đạt 294.2 tỷ USD (+9.6% CK) với 17,387 dự án còn hiệu lực (+6.8% CK) tính đến T7.
2. Triển vọng và rủi ro ngành
- Chính sách tiền tệ tại các thị trường trọng điểm: Trong Q2, một số Ngân hàng Trung ương phương Tây đã bắt đầu hạ lãi suất điều hành. Ngoài ra, trong bối cảnh lạm phát gần đây đang hạ nhiệt và các tín hiệu kinh tế suy yếu, kỳ vọng cắt giảm lãi suất của Fed đã tăng mạnh lên 1–1.25 điểm %. Lãi suất điều hành thấp hơn sẽ hỗ trợ nền kinh tế và nhu cầu tiêu dùng dài hạn.
- Các nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng: Theo dự báo mới nhất của Ngân hàng Thế giới, dự báo GDP thực năm 2024 của các thị trường trọng điểm của Việt Nam tiếp tục tăng, bao gồm Hoa Kỳ(+2.5%; trước đó: +1.6%); EU (+0.7%; không thay đổi); Nhật Bản (+0.9%; trước đó: +0.7%); và Trung Quốc (+4.8%; trước đó: +4.5%). GDP tiếp tục tăng trưởng sẽ dẫn đến sự phục hồi về thu nhập và nhucầu tại các thị trường này.
- Niềm tin tiêu dùng phân hóa: Nhìn chung, chỉ số niềm tin tiêu dùng tại các thị trường trọng điểm vẫn ổn định trong Q2. Chỉ số này tại Hàn Quốc, Nhật Bản và EU vẫn đi ngang. Tuy nhiên, chỉ số niềm tin tiêu dùng tại Hoa Kỳ đã giảm đáng kể so với số liệu đầu năm 2024, trong bối cảnh dữ liệu kinh tế suy yếu và nỗi lo suy thoái gia tăng. Ngoài ra, người tiêu dùng tại Hoa Kỳ chứng kiến mức tiết kiệm hộ gia đình giảm và vẫn ở mức thấp, báo hiệu không tốt cho khả năng tiêu dùng trong tương lai. Bên cạnh đó, các tín hiệu khác cho thấy nhu cầu vận chuyển và thông quan cảng suy yếu đã xuất hiện: 1) doanh thu lũy kế 12T đến cuối Q2 của các công ty vận tải biển lớn đã giảm xuống mức thời COVID; và 2) sản lượng thông quan tại các cảng biển lớn đã giảm, đặc biệt là ở khu vực Bắc Mỹ, với mức giảm 12.5%CK trong T6.
- Rủi ro trong phần còn lại của năm 2024: Mặc dù lĩnh vực cảng biển đã phục hồi mạnh mẽ trong 7T và vẫn còn những rủi ro đáng kể trong phần còn lại của năm 2024. Mức tiết kiệm hộ gia đình tại Hoa Kỳ vẫn ở mức thấp, báo hiệu không tốt cho tiêu dùng trong tương lai. Mức tiêu dùng thấp và chính sách tiền tệ thắt chặt đe dọa sự phục hồi tiêu dùng tại Hoa Kỳ, thị trường lớn nhất của Việt Nam. Hơn nữa, nỗi lo suy thoái gia tăng đang làm trầm trọng thêm sự suy giảm niềm tin hiện tại của người tiêu dùng Hoa Kỳ. Trong khi đó, giữa bối cảnh các công ty vận tải chủ chốt hành động nhằm cắt giảm nguồn cung vận chuyển, cũng như căng thẳng leo thang ở Trung Đông, khả năng khiến giá vận tải biển sẽ duy trì ở mức cao ít nhất là trong thời gian còn lại của năm 2024, do các tuyến đường thương mại dài hơn gây căng thẳng cho năng lực vận chuyển. Giá vận chuyển cao hơn sẽ gây áp lực lên thương mại toàn cầu, thúc đẩy lạm phát và ảnh hưởngđến mức tiêu dùng chung.
- Một cuộc chiến tranh thương mại mới Mỹ - Trung?: Việc Hoa Kỳ tăng thuế gần đây đối với ô tô điện, tấm pin mặt trời, thép và các mặt hàng khác do Trung Quốc sản xuất có thể thúc đẩy một cuộc chiến thương mại mới giữa hai nền kinh tế. Điều này gây ra những mối đe dọa tiềm tàng đối với sự phục hồi của thương mại thế giới. Nhưng đối với ngành xuất khẩu tại Việt Nam có thể được hưởng lợi, vì lợi thế về giá của hàng hóa Trung Quốc sẽ thu hẹp, điều này sẽ hỗ trợ một phần cho các hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, thuế quan cao hơn có thể gây thêm áp lực lên tỷ lệ lạm phát cao gần đây, điều này có thể trì hoãn việc cắt giảm lãi suất của Fed và cuối cùng cản trở tăng trưởng tiêu dùng dài hạn tại các thị trường chính
(Nguồn: Mirae Asset)
=>> Nhìn chung bức tranh 7T/2024 ngành cảng biển khá tích cực khi xu cầu hàng hóa các nước tăng, áp lực lạm phát giảm và giá hàng hóa ổn định nhờ nguồn cung cải thiện. Kỳ vọng sản lượng xuất nhập khẩu cuối năm vẫn được duy trì tích cực khi nhu cầu cuối năm thường sẽ tăng lên, do các nước thường có nhu cầu tích trữ chuẩn bị cho dịp lễ. Bên cạnh đó, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung sẽ góp phần hỗ trợ một phần cho các hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.