[Cập nhật] KQKD Q2/23 - LNST của nhiều DN Thép tiếp tục giảm nhưng giai đoạn khó khăn nhất của ngành đã qua

[Cập nhật] KQKD Q2/23 - LNST của nhiều DN Thép tiếp tục giảm nhưng giai đoạn khó khăn nhất của ngành đã qua

[Cập nhật] KQKD Q2/23 - LNST của nhiều DN Thép tiếp tục giảm nhưng giai đoạn khó khăn nhất của ngành đã qua

[Cập nhật] KQKD Q2/23 - LNST của nhiều DN Thép tiếp tục giảm nhưng giai đoạn khó khăn nhất của ngành đã qua

[Cập nhật] KQKD Q2/23 - LNST của nhiều DN Thép tiếp tục giảm nhưng giai đoạn khó khăn nhất của ngành đã qua
Banner Quảng cáo uCustom

[Cập nhật] KQKD Q2/23 - LNST của nhiều DN Thép tiếp tục giảm nhưng giai đoạn khó khăn nhất của ngành đã qua

Tính đến ngày 18/7/2023, 203 ngân hàng và doanh nghiệp niêm yết (đại diện 42,2% tổng giá trị vốn hóa trên HOSE, HNX và UPCoM) đã có BCTC hoặc ước tính kết quả kinh doanh Q2-2023 và 6T2023, với tổng LNST trong quý 2 ước giảm -18,5% so với cùng kỳ. Đây là quý thứ 3 liên tiếp lợi nhuận suy giảm ở các ngân hàng và DN niêm yết này.

Ngành ngân hàng: BAB báo cáo LNST Q2-2023 giảm sâu do chi phí lương tăng mạnh

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bắc Á (BAB) là ngân hàng đầu tiên công bố BCTC Q2-2023s, trong đó tổng thu nhập hoạt động và LNST lần lượt đạt 717 tỷ đồng và 111,2 tỷ đồng. LNST giảm sâu so với cùng kỳ (-25%) cũng như so với quý 1/2023 (-58,6%) cho dù ngân hàng này vẫn ghi nhận tăng trưởng về tổng thu nhập hoạt động (+31% YoY và +5,6% QoQ).

Nguyên nhân cho sự suy giảm về LN bao gồm (1) chi phí hoạt động tăng +54% QoQ trong Q2-2023 chủ yếu do chi phí lương tăng mạnh +72% QoQ (chiếm 44,8% chi phí hoạt động) và số lượng nhân viên tăng +4% và (2) chi phí trích lập dự phòng rủi ro tăng lên hơn 33 tỷ đồng sau khi hoàn nhập dự phòng hơn 9 tỷ đồng trong Q1-2023.

Trước BAB, LPB ước tính LNST cho Q2-2023 đạt 704 tỷ đồng, giảm -50,9% YoY và -43,4% QoQ. Trong khi đó, tính đến ngày 18/7/2023, chưa có ngân hàng nào thuộc top 10 (xét theo quy mô vốn chủ sở hữu) đưa ra ước tính KQKD cho quý 2.

Khối Phi tài chính: LNST tiếp tục giảm mạnh ở các DN Thép quy mô nhỏ nhưng giai đoạn khó khăn nhất của ngành thép đã qua

Có tới 100/186 doanh nghiệp Phi tài chính ghi nhận LNST Q2-2023 giảm so với cùng kỳ. Hầu hết các DN có LNST suy giảm thuộc ngành Thép, Điện (QTP, HND, SBA), Phân phối Xăng dầu & Khí đốt (GAS, OIL, PGD), Cao su (TRC, BRC), Thủy sản (FMC, AAM), Bia (SMB, HAD). Tuy nhiên, ngoại trừ nhóm DN điện than (HND và QTP), KQKD kém của các DN thuộc những ngành còn lại không quá bất ngờ đối với đa số NĐT trên thị trường.

Trong khi đó, LNST tăng trưởng cao ở các DN hoạt động trong mảng Dịch vụ & Thiết bị Dầu khí (PVD, PVS, PVB), BĐS KCN (KBC, D2D, SZG), và Dược phẩm (IMP). KQKD tích cực đã hỗ trợ giá nhiều cổ phiếu bứt phá so với mức đỉnh cũ thiết lập trong khoảng từ 3 tháng đến 1 năm. Trước khi vượt đỉnh, một số cổ phiếu (bao gồm KBC, D2D, PVD) đã có một số tín hiệu “sớm” và được hệ thống FiinTrade ghi nhận như lọt vào Top đột phá, Giá tăng và Khối lượng tăng, Có dấu hiệu mua chủ động (BU) với tỷ lệ Mua chủ động (BU) áp đảo so với Bán chủ động (SD).

Riêng với ngành Thép, đã có 8 doanh nghiệp Thép công bố BCTC Q2-2023, trong đó CTCP Gang thép Thái Nguyên (TIS) báo lỗ 98,1 tỷ đồng trong Q2-2023 (cùng kỳ lãi gần 3,8 tỷ đồng) với doanh thu giảm -38,9% YoY và biên EBIT âm (-4,2%). Đây là quý thứ 4 liên tiếp TIS ghi nhận lỗ. Ngoài TIS, 7 DN Thép còn lại có quy mô tương đối nhỏ (bao gồm MEL, KMT, TNS, TDS) và hầu hết chứng kiến LNST Q2-2023 tiếp tục giảm sâu so với cùng kỳ trong khi hàng tồn kho giảm không đáng kể. Nhu cầu tiêu thụ thép xây dựng trong nước vẫn khá yếu khi thị trường BĐS chưa có dấu hiệu phục hồi và động thái đẩy mạnh xuất khẩu thép gần đây của Trung Quốc đang tạo áp lực lớn lên các DN thép nội.

Trên thực tế, việc HPG vận hành trở lại 6/7 lò cao và dự kiến mở lại lò cao cuối cùng tại khu liên hợp Dung Quất sắp tới khi sản lượng tiêu thụ thép dần cải thiện trong các tháng gần đây cho thấy giai đoạn khó khăn nhất của ngành thép đã qua đi.

Anh chị có thể tải file excel cập nhật KQKD Tại Đây